04 November, 2022
Đăng bởi: Trung tâm XTTM & Đầu Tư họ Đỗ(Đậu)
Nước ta, từ thuở hồng hoang - thời đại đồ đá cũ đến nay đã trên ba vạn năm. Thời tiền sử, từ khi có đế, có vua cách nay cũng 7000 năm, nhà nước sơ khai của Đế Thiên, Đế Cả, Đế Viên… con cháu Phục Hy (giỗ ngày mồng 1 tháng 4 âm lịch) đã có công khai sáng đất nước ta từ buổi đầu đóng đô ở phía tây dãy Ba Vì.
Theo ngọc phả, thánh tích và chứng cứ còn lưu giữ ở một số nơi đã khẳng định: Họ Đỗ - một cộng đồng người Việt đã sinh tụ, phát tích trên vùng đất này ít nhất cách đây trên 5000 năm, trước thuở lập nước đến nay mang quốc hiệu Văn Lang, trước cả thời kỳ xác lập vua Hùng đời thứ nhất.
Thật vậy, theo “Cổ Lôi Ngọc Phả Truyền Thư” và “và Bách Việt Tộc Phả, cách đây gần 5000 năm, cụ Đỗ Thương kết duyên cùng cụ bà Vụ Tiên. Hai cụ sinh hạ được chín người con: một gái, tám trai. Người con cả là Đỗ Thị Đoan Trang, tên húy là Ngoan, được tôn danh là Đỗ Quý Thị (Tức Quý bà họ Đỗ); Tám người con trai là: Đỗ Xương, Đỗ Tiêu, Đỗ Kỷ, Đỗ Cương, Đỗ Chương, Đỗ Dũng, Đỗ Bích và Đỗ Trọng.
Cụ Đỗ Quý Thị sinh ngày 08 tháng 4, mất ngày 15 tháng 7 âm lịch, miếu thờ cụ ở Ba La, Hà Đông. Chồng cụ là Thái Khương Công Nguyễn Minh Khiết, hiệu là Đế Minh. Cụ được phối thờ cùng Đế Minh Nguyễn Minh Khiết tại nhà thờ Bách Việt Thiệu Tổ - nhà thờ hàng tổ nối tiếp của trăm họ người Việt ở thôn Vân Nội, phường Phú Lương, quận Hà Đông ngày nay. Cụ còn được thờ tại chùa Mãn Phúc, Phú Yên, Phú Xuyên, Hà Nội. Hai cụ sinh ra Lộc Tục. Khi Lộc Tục trưởng thành, lấy con gái Thần Long, là tù trưởng Hồ Động Định, phía nam sông Dương Tử (thời đó, các tộc Việt đều ở phía nam 5 dãy núi Ngũ Lĩnh, nam sông Dương Tử - nay là sông Trường Giang.
Sau khi được vua cha truyền ngôi, Lộc Tục tụ quân dẹp loạn, thu phục được 72 bộ lạc, lên ngôi lấy hiệu là Kinh Dương Vương, đặt tên nước là Xích Quỷ (“Xích Quỷ” là tên ngôi sao sáng đỏ). Kinh Dương Vương mất ngày 18 tháng Giêng năm 2879 (trước Công Nguyên).
Mộ Thủy tổ Việt Nam Kinh Dương Vương ở làng Á Lữ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Khu di tích đền thờ Kinh Dương Vương cũng ở gần đấy. Ngày 18 tháng Giêng là ngày giỗ Kinh Dương Vương, nhà nước về đây tổ chức đã trở thành lễ hội truyền thống hàng năm.
Sùng Lãm là con trai thứ ba của Kinh Dương Vương, hiệu là Lạc Long Quân, lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ, thay cha lập nên nhà nước Văn Lang, mở ra triều đại vua Hùng đầu tiên.
Mộ quốc tổ Lạc Long Quân ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, Hà Nội (Đền thờ các vua Hùng ở đền Hùng, tỉnh Phú Thọ, giỗ chung là ngày 10 tháng 3 âm lịch. Cụ Đỗ Quý Thị được phong Phật hiệu là “Hương Vân Cái Bồ Tát”. Dân Việt tôn phong là “Đệ Nhất Tiên Thiên Thánh Mẫu’’ (Mẫu mẹ đầu tiên của Đạo Mẫu Việt Nam) vì bà là mẹ của Thủy tổ Việt Nam – Kinh Dương Vương, là bà nội của quốc tổ Lạc Long Quân – vua Hùng.
Còn tám người con trai (em của cụ Đỗ Quý Thị, là cậu của Kinh Dương Vương, lúc nhỏ đã được cụ Đỗ Quý Thị đưa vào động Tiên Phi, nay là Động Tiên, Lạc Thủy, Hòa Bình để tu luyện. Lớn lên, họ đã có công giúp Kinh Dương Vương dựng nước nên được phong là Bát Bộ Kim Cương. Đó là:
1. Đỗ Xương, hiệu Thanh Trừ Tai Kim Cương (Cơ khí giới – trừ tai họa);
2. Đỗ Tiêu, hiệu là Tịch Độc Thận Kim Cương;
3. Đỗ Kỷ, hiệu là Hoàn Tuỳ Cầu Kim Cương;
4. Đỗ Cương, hiệu là Bạch Tịnh Thuỷ Kim Cương;
5. Đỗ Chương, hiệu là Xích Thanh Hoả Kim Cương;
6. Đỗ Dũng, hiệu là Định Trừ Tai Kim Cương;
7. Đỗ Bích, hiệu là Tử Hiền Thần Kim Cương;
8. Đỗ Trọng, hiệu là Đại Thần Lục Kim Cương.”
Mộ Bát Bộ Kim Cương (và thân thích) được chôn cất ở Gò Thiềm Thừ (Gò Con Cóc), tại Ba La, Hà Đông, thành phố Hà Nội. Nơi đây được lập bia Thần Cóc để thờ vì Cóc là cậu Vua – Cậu ông trời. Hai bia đá thần Cóc bốn mặt khắc chữ Nho. Được dịch là:
Lối cũ dấu thơm,
Nghìn xưa còn đó.
Cây to báu vật,
Muôn thuở còn đây.